Đột quỵ - Loại bệnh nguy hiểm và phổ biến
Trang 1 trong tổng số 1 trang • Share
Đột quỵ - Loại bệnh nguy hiểm và phổ biến
Bệnh đột quỵ hay còn gọi là tai biến mạch máu não là một trong những căn bệnh nguy hiểm đối với sức khỏe con người. Dù vậy, đây cũng là loại bệnh có phương pháp phòng ngừa và chữa trị.
Loại bệnh nguy hiểm và phổ biến
Theo thống kê của Hội Đột Quỵ Hoa Kỳ, đột quỵ là nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ 3 trên thế giới sau bệnh tim mạch và bệnh ung thư. Đây cũng là nguyên nhân hàng đầu gây tàn phế.
Loại bệnh nguy hiểm và phổ biến
Theo thống kê của Hội Đột Quỵ Hoa Kỳ, đột quỵ là nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ 3 trên thế giới sau bệnh tim mạch và bệnh ung thư. Đây cũng là nguyên nhân hàng đầu gây tàn phế.
Là bệnh rất phổ biến: nguy cơ bị đột quỵ cao trong cộng đồng là 20% tức là trung bình có 1 người bị đột quỵ trong số 5 người được theo dõi trong suốt cuộc đời. Trong lần đột quỵ đầu tiên, khoảng 1/3 số bệnh nhân chỉ bị ảnh hưởng nhẹ, 1/3 bị tàn phế nặng và 1/3 có thể bị tử vong; các lần đột quỵ tái phát sẽ có nguy cơ tử vong và tàn phế cao hơn.
Đối tượng có khả năng cao mắc bệnh đột quỵ
Các nghiên cứu về dịch tễ trên thế giới ghi nhận những người có một trong các yếu tố tiềm ẩn khả năng mắc bệnh đột quỵ (hoặc tái phát đột quỵ). Có thể sắp xếp các yếu tố đó theo nhóm sau đây.
Nhóm 1 gồm: Tăng huyết áp (là một trong các yếu tố nguy cơ hàng đầu của đột quỵ). Đái tháo đường. Bệnh tim mạch (đặc biệt là rung nhĩ, bệnh mạch vành, bệnh van tim). Tiền căn đột quỵ hay có cơn thiếu máu não thoáng qua.
Nhóm 2 gồm: Hút thuốc lá (đây là yếu tố làm tăng cao nguy cơ đột quỵ cũng như các bệnh lý khác như xơ vữa mạch máu, tăng huyết áp... ). Béo phì, tăng cholesterol, tăng mỡ máu. Ít vận động. Uống nhiều rượu.
Nhóm 3 gồm: Tuổi cao (khả năng bị đột quỵ gia tăng theo tuổi, đặc biệt ở người trên 60 tuổi. Nam giới (nam giới thường có nguy cơ mắc bệnh đột quỵ hơn nữ giới). Tiền căn gia đình có người bị đột quỵ.
Nguyên nhân và các dạng đột quỵ phổ biến
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến đột quỵ, nhưng phổ biến nhất là tình trạng mỡ trong máu cao kéo dài, từ đó hình thành các mảng xơ mỡ động mạch. Đây có thể là hậu quả của thói quen sử dụng nhiều rượu bia, thuốc lá, ít vận động... Các mảng xơ mỡ đóng ở thành mạch máu, ngày càng dày lên làm lòng mạch hẹp dần lại, máu ứ lại và đóng thành cục máu đông gây tắc mạch tại chỗ hoặc di chuyển làm tắc động mạch ở nơi khác. Bên cạnh đó, các bệnh lý tăng huyết áp, đái tháo đường, tim mạch, căng thẳng trong công việc… cũng có thể gây đột quỵ.
Tóm lại, có 2 dạng đột quỵ thường gặp hiện nay (xem hình vẽ minh họa).
- Dạng thứ nhất là đột quỵ do tắc mạch máu gây thiếu máu cục bộ. Bệnh thường gặp sau một cơn đau hoặc cục máu đông có thể hình thành trong các mạch máu của não, hoặc trong mạch máu dẫn đến não, hay trong các mạch máu ở những nơi khác của cơ thể đi đến não; những cục máu đông chặn lưu lượng máu đến các tế bào của não, dạng này chiếm tỉ lệ cao trên 80% các ca đột quỵ do thiếu máu cục bộ.
- Dạng thứ hai là đột quỵ do xuất huyết não. Bệnh xảy ra do một mạch máu não bị vỡ, kết quả là máu thấm vào mô não, gây tổn thương cho các tế bào não, phổ biến nhất của dạng này là kết hợp giữa huyết áp cao với chứng phình động mạch não, hay dị dạng mạch máu não bẩm sinh, do rối loạn đông máu hoặc bệnh nhân đang điều trị bằng thuốc chống đông.
Hậu quả và di chứng tai biến mạch máu não
Đột quỵ làm tổn thương nhu mô não, tùy thuộc vào vị trí nhu mô não tổn thương mà bệnh nhân sẽ có chịu những hậu quả hay di chứng tương ứng sau đây.
Về chức năng vận động, cảm giác, bệnh nhân sẽ chịu các di chứng: Yếu nhẹ nửa người hoặc liệt hoàn toàn nửa người (liệt hẳn một bên cơ thể). Giảm và mất cảm giác một bên cơ thể. Khó nuốt hoặc nuốt sặc. Giảm thị lực và hoặc giảm thị trường (tầm nhìn xung quanh bị hạn chế).
Về năng lực tiếp nhận và diễn đạt, bệnh nhân có thể có một vài trong số các hậu quả như: Sao nhãng một bên cơ thể (bỏ qua hoặc quên nửa bên thân thể bị ảnh hưởng - điều này thường xảy ra khi vùng tổn thương ở bên phải của não). Loạn vận ngôn (nói năng khó khăn hoặc nói líu nhíu) hay rối loạn ngôn ngữ (khó nói ra được từ hoặc khó hiểu được những điều đang nói).
Về tâm trạng cảm xúc, khả năng suy nghĩ nhận thức và cả hành vi như: Mất khả năng kiểm soát cảm xúc và thay đổi tâm trạng. Thay đổi về nhận thức (các vấn đề về trí nhớ, khả năng đánh giá, giải quyết vấn đề hoặc kết hợp tất cả những khả năng này). Thay đổi hành vi (thay đổi tính cách, có ngôn ngữ và hành động không thích hợp).
Phát hiện dấu hiệu tai biến
Bệnh đột quỵ thường xảy ra đột ngột, với rất ít những triệu chứng báo trước. Vì vậy, cần sớm phát hiện các triệu chứng đó để kịp thời có biện pháp ngăn chặn diễn biến bệnh lý. Những triệu chứng thường xuất hiện như sau.
- Đột nhiên bị đau đầu dữ dội, choáng váng, kèm theo cứng cổ, nôn. Gặp khó khăn trong nói hoặc hiểu người khác nói gì, yếu đột ngột ở một phần cơ thể. Nhìn khó khăn (mắt mờ hoặc mù một bên hoặc nhìn thấy hình đôi). Tiểu tiện không tự chủ hoặc bí tiểu.
- Mất ý thức: người bệnh sững sờ, không biết gì, khó đánh thức hoặc hôn mê đột ngột, đôi khi tử vong ngay.
Các dấu hiệu này có thể chỉ thoáng qua, kéo dài trong vài phút rồi người bệnh lại trở lại trạng thái bình thường. Hiện tượng này được gọi là cơn thiếu máu não thoáng qua. Thiếu máu não thoáng qua là những dấu hiệu báo trước đặc biệt quan trọng của đột quỵ và người bệnh cần được nhập viện ngay.
Phòng chống đột quỵ
Để ngăn chặn không để cho đột quỵ xảy ra, cần phải
- Có biện pháp để bệnh nhân ngừng hút thuốc lá, vì thuốc lá là nguy cơ chính của bệnh mạch máu não. Người hút thuốc lá nhiều có thể bị đột quỵ dù chỉ ở tuổi trung niên.
- Phòng và chữa tăng huyết áp, cần kiểm tra huyết áp thường xuyên, giữ huyết áp khoảng 120/70mmHg, tránh những cảm xúc bất lợi như: vui, buồn, giận dữ, thất vọng, stress hằng ngày. Điều trị tốt bệnh huyết áp cao (nguyên nhân chính gây đứt mạch máu não).
- Cần giảm ăn chất béo có nguồn gốc động vật, ăn nhiều rau và trái cây các loại. Giảm cân nặng, chống béo phì bằng tiết chế khẩu phần ăn hằng ngày.
- Phòng và điều trị tiểu đường (yếu tố nguy cơ gây mảng xơ vữa động mạch lớn, dẫn đến thiếu máu ở não). Cần giảm cholesterol trong máu, cố gắng duy trì cholesterol dưới 200mg/100ml. Phòng và trị bệnh đa hồng cầu (có thể gây cơn thiếu máu não hay nhũn não).
- Khuyến khích người nhiễm bệnh tăng cường hoạt động thể lực như: tập thể dục đều đặn, đi bộ, chơi một môn thể thao thích hợp
Sơ cấp cứu khi bị đột quỵ
Khi thấy ai đó có một trong các triệu chứng nêu trên cần nhanh chóng để người bệnh không bị ngã gây chấn thương. Đặt người bệnh nằm chỗ thoáng, nghiêng một bên nếu bị nôn, móc hết đờm nhớt cho bệnh nhân dễ thở.
Đối với người bị tai biến mạch máu não, trong 3 giờ đầu thời gian là vàng, vì vậy, hãy gọi xe cấp cứu hoặc taxi đưa ngay bệnh nhân đến bệnh viện càng sớm càng tốt. Đối với địa bàn miền núi, vùng sâu nếu không có điều kiện hãy di chuyển bệnh nhân bằng cáng, không nên đưa bệnh nhân đến bệnh viện bằng xe máy, tránh xóc khi chuyển bệnh nhân.
Khi di chuyển bệnh nhân, nên để bệnh nhân trên mặt phẳng, nghiêng mặt sang một bên, nới bớt quần áo cho thoáng. Nếu bệnh viện gần nhà có đủ điều kiện chữa trị thì không nên chuyển đến viện xa, trừ khi có chỉ định của bác sĩ, vì càng di chuyển xa càng có thể làm bệnh nặng hơn.
Không tự ý cho uống hoặc nhỏ thuốc hạ huyết áp hay bất kỳ loại thuốc nào khác, không để nằm chờ xem bệnh nhân có khỏe lại không. Nhiều người thường nhầm lẫn các dấu hiệu của đột quỵ với hiện tượng trúng gió, nên xoa dầu nóng, cạo gió, cắt lể hoặc cúng bái… Điều này là hoàn toàn sai lầm, có thể làm cho tình trạng bệnh trầm trọng thêm.
Đối tượng có khả năng cao mắc bệnh đột quỵ
Các nghiên cứu về dịch tễ trên thế giới ghi nhận những người có một trong các yếu tố tiềm ẩn khả năng mắc bệnh đột quỵ (hoặc tái phát đột quỵ). Có thể sắp xếp các yếu tố đó theo nhóm sau đây.
Nhóm 1 gồm: Tăng huyết áp (là một trong các yếu tố nguy cơ hàng đầu của đột quỵ). Đái tháo đường. Bệnh tim mạch (đặc biệt là rung nhĩ, bệnh mạch vành, bệnh van tim). Tiền căn đột quỵ hay có cơn thiếu máu não thoáng qua.
Nhóm 2 gồm: Hút thuốc lá (đây là yếu tố làm tăng cao nguy cơ đột quỵ cũng như các bệnh lý khác như xơ vữa mạch máu, tăng huyết áp... ). Béo phì, tăng cholesterol, tăng mỡ máu. Ít vận động. Uống nhiều rượu.
Nhóm 3 gồm: Tuổi cao (khả năng bị đột quỵ gia tăng theo tuổi, đặc biệt ở người trên 60 tuổi. Nam giới (nam giới thường có nguy cơ mắc bệnh đột quỵ hơn nữ giới). Tiền căn gia đình có người bị đột quỵ.
Nguyên nhân và các dạng đột quỵ phổ biến
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến đột quỵ, nhưng phổ biến nhất là tình trạng mỡ trong máu cao kéo dài, từ đó hình thành các mảng xơ mỡ động mạch. Đây có thể là hậu quả của thói quen sử dụng nhiều rượu bia, thuốc lá, ít vận động... Các mảng xơ mỡ đóng ở thành mạch máu, ngày càng dày lên làm lòng mạch hẹp dần lại, máu ứ lại và đóng thành cục máu đông gây tắc mạch tại chỗ hoặc di chuyển làm tắc động mạch ở nơi khác. Bên cạnh đó, các bệnh lý tăng huyết áp, đái tháo đường, tim mạch, căng thẳng trong công việc… cũng có thể gây đột quỵ.
Tóm lại, có 2 dạng đột quỵ thường gặp hiện nay (xem hình vẽ minh họa).
- Dạng thứ nhất là đột quỵ do tắc mạch máu gây thiếu máu cục bộ. Bệnh thường gặp sau một cơn đau hoặc cục máu đông có thể hình thành trong các mạch máu của não, hoặc trong mạch máu dẫn đến não, hay trong các mạch máu ở những nơi khác của cơ thể đi đến não; những cục máu đông chặn lưu lượng máu đến các tế bào của não, dạng này chiếm tỉ lệ cao trên 80% các ca đột quỵ do thiếu máu cục bộ.
- Dạng thứ hai là đột quỵ do xuất huyết não. Bệnh xảy ra do một mạch máu não bị vỡ, kết quả là máu thấm vào mô não, gây tổn thương cho các tế bào não, phổ biến nhất của dạng này là kết hợp giữa huyết áp cao với chứng phình động mạch não, hay dị dạng mạch máu não bẩm sinh, do rối loạn đông máu hoặc bệnh nhân đang điều trị bằng thuốc chống đông.
Hậu quả và di chứng tai biến mạch máu não
Đột quỵ làm tổn thương nhu mô não, tùy thuộc vào vị trí nhu mô não tổn thương mà bệnh nhân sẽ có chịu những hậu quả hay di chứng tương ứng sau đây.
Về chức năng vận động, cảm giác, bệnh nhân sẽ chịu các di chứng: Yếu nhẹ nửa người hoặc liệt hoàn toàn nửa người (liệt hẳn một bên cơ thể). Giảm và mất cảm giác một bên cơ thể. Khó nuốt hoặc nuốt sặc. Giảm thị lực và hoặc giảm thị trường (tầm nhìn xung quanh bị hạn chế).
Về năng lực tiếp nhận và diễn đạt, bệnh nhân có thể có một vài trong số các hậu quả như: Sao nhãng một bên cơ thể (bỏ qua hoặc quên nửa bên thân thể bị ảnh hưởng - điều này thường xảy ra khi vùng tổn thương ở bên phải của não). Loạn vận ngôn (nói năng khó khăn hoặc nói líu nhíu) hay rối loạn ngôn ngữ (khó nói ra được từ hoặc khó hiểu được những điều đang nói).
Về tâm trạng cảm xúc, khả năng suy nghĩ nhận thức và cả hành vi như: Mất khả năng kiểm soát cảm xúc và thay đổi tâm trạng. Thay đổi về nhận thức (các vấn đề về trí nhớ, khả năng đánh giá, giải quyết vấn đề hoặc kết hợp tất cả những khả năng này). Thay đổi hành vi (thay đổi tính cách, có ngôn ngữ và hành động không thích hợp).
Phát hiện dấu hiệu tai biến
Bệnh đột quỵ thường xảy ra đột ngột, với rất ít những triệu chứng báo trước. Vì vậy, cần sớm phát hiện các triệu chứng đó để kịp thời có biện pháp ngăn chặn diễn biến bệnh lý. Những triệu chứng thường xuất hiện như sau.
- Đột nhiên bị đau đầu dữ dội, choáng váng, kèm theo cứng cổ, nôn. Gặp khó khăn trong nói hoặc hiểu người khác nói gì, yếu đột ngột ở một phần cơ thể. Nhìn khó khăn (mắt mờ hoặc mù một bên hoặc nhìn thấy hình đôi). Tiểu tiện không tự chủ hoặc bí tiểu.
- Mất ý thức: người bệnh sững sờ, không biết gì, khó đánh thức hoặc hôn mê đột ngột, đôi khi tử vong ngay.
Các dấu hiệu này có thể chỉ thoáng qua, kéo dài trong vài phút rồi người bệnh lại trở lại trạng thái bình thường. Hiện tượng này được gọi là cơn thiếu máu não thoáng qua. Thiếu máu não thoáng qua là những dấu hiệu báo trước đặc biệt quan trọng của đột quỵ và người bệnh cần được nhập viện ngay.
Phòng chống đột quỵ
Để ngăn chặn không để cho đột quỵ xảy ra, cần phải
- Có biện pháp để bệnh nhân ngừng hút thuốc lá, vì thuốc lá là nguy cơ chính của bệnh mạch máu não. Người hút thuốc lá nhiều có thể bị đột quỵ dù chỉ ở tuổi trung niên.
- Phòng và chữa tăng huyết áp, cần kiểm tra huyết áp thường xuyên, giữ huyết áp khoảng 120/70mmHg, tránh những cảm xúc bất lợi như: vui, buồn, giận dữ, thất vọng, stress hằng ngày. Điều trị tốt bệnh huyết áp cao (nguyên nhân chính gây đứt mạch máu não).
- Cần giảm ăn chất béo có nguồn gốc động vật, ăn nhiều rau và trái cây các loại. Giảm cân nặng, chống béo phì bằng tiết chế khẩu phần ăn hằng ngày.
- Phòng và điều trị tiểu đường (yếu tố nguy cơ gây mảng xơ vữa động mạch lớn, dẫn đến thiếu máu ở não). Cần giảm cholesterol trong máu, cố gắng duy trì cholesterol dưới 200mg/100ml. Phòng và trị bệnh đa hồng cầu (có thể gây cơn thiếu máu não hay nhũn não).
- Khuyến khích người nhiễm bệnh tăng cường hoạt động thể lực như: tập thể dục đều đặn, đi bộ, chơi một môn thể thao thích hợp
Sơ cấp cứu khi bị đột quỵ
Khi thấy ai đó có một trong các triệu chứng nêu trên cần nhanh chóng để người bệnh không bị ngã gây chấn thương. Đặt người bệnh nằm chỗ thoáng, nghiêng một bên nếu bị nôn, móc hết đờm nhớt cho bệnh nhân dễ thở.
Đối với người bị tai biến mạch máu não, trong 3 giờ đầu thời gian là vàng, vì vậy, hãy gọi xe cấp cứu hoặc taxi đưa ngay bệnh nhân đến bệnh viện càng sớm càng tốt. Đối với địa bàn miền núi, vùng sâu nếu không có điều kiện hãy di chuyển bệnh nhân bằng cáng, không nên đưa bệnh nhân đến bệnh viện bằng xe máy, tránh xóc khi chuyển bệnh nhân.
Khi di chuyển bệnh nhân, nên để bệnh nhân trên mặt phẳng, nghiêng mặt sang một bên, nới bớt quần áo cho thoáng. Nếu bệnh viện gần nhà có đủ điều kiện chữa trị thì không nên chuyển đến viện xa, trừ khi có chỉ định của bác sĩ, vì càng di chuyển xa càng có thể làm bệnh nặng hơn.
Không tự ý cho uống hoặc nhỏ thuốc hạ huyết áp hay bất kỳ loại thuốc nào khác, không để nằm chờ xem bệnh nhân có khỏe lại không. Nhiều người thường nhầm lẫn các dấu hiệu của đột quỵ với hiện tượng trúng gió, nên xoa dầu nóng, cạo gió, cắt lể hoặc cúng bái… Điều này là hoàn toàn sai lầm, có thể làm cho tình trạng bệnh trầm trọng thêm.
T.M. (tổng hợp)
hoangthihue201066- Cấp 1
- Bài gửi : 31
Điểm : 3268
Like : 0
Tham gia : 02/03/2016
Similar topics
» Phòng khám nha khoa ở biên hòa: biến chứng nguy hiểm từ bệnh nha chu
» Biến chứng nguy hiểm của bệnh đái đường
» Nguy hiểm khi bị bệnh lậu
» Bệnh Lậu – Sự Nguy Hiểm Đối Với Ở Trẻ Nhỏ
» triệu chứng và vài biến chứng nguy hiểm của bệnh viêm mũi
» Biến chứng nguy hiểm của bệnh đái đường
» Nguy hiểm khi bị bệnh lậu
» Bệnh Lậu – Sự Nguy Hiểm Đối Với Ở Trẻ Nhỏ
» triệu chứng và vài biến chứng nguy hiểm của bệnh viêm mũi
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết